Chào Mừng Quý Khách Đã Ghé Thăm Website Của Nhà Thuốc Đông Y MAI TRÍ TUỆ . Chúc Quý Khách có nhưng giây phút thật hữu ích !!!

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016


   ÂM - DƯƠNG là nền tảng của một vũ trụ đang vận động, nó tồn tại từ lúc vũ trụ hình thành và gắn liền với sự phát triển không ngừng của vũ trụ. Trong quá trình tranh đấu với tự nhiên của con người , ông cha ta đã học hỏi tự nhiên đưa ra học thuyết ÂM DƯƠNG để lý giải  sự xuất hiện, sự tồn tại, sự chuyển hóa lặp đi lặp lại có tính chu kỳ của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên.

 I.  HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG:

    ÂM DƯƠNG là hai mặt của một sự vật, hiện tượng  trong tự nhiên, nó có hai tính chất đối lập nhau nhưng luôn tồn tại bên cạnh nhau, hai tính chất này luôn vận động theo cách tính chất này lớn lên thì tính chất kia sẽ nhỏ đi , khi tính chất này lớn đến cực hạn thì sẽ chuyển hóa ngược lại, sự chuyển hóa luôn có tính chu kỳ để mọi sự vật hiện tượng luôn vận động.
   Các quy luật trong học thuyết âm dương:

1. Âm dương đối lập:
   Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước, và tranh đấu với nhau giữa hai mặt âm dương.
  Ví dụ: ngày và đêm, nước và lửa.....

2. Âm dương hỗ căn :
   Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy rằng đối lập lẫn nhau nhưng phải nương tựa vào nhau thì mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt âm dương đều là quá trình vận động phát triển tích cực của một sự vật, không thể phát triển khi tồn tại đơn độc.
  Thí dị : quá trình đồng hóa và dị hóa của sinh vật, có đồng hóa thì mới có cái để dị hóa mà có dị hóa thì mới có nguồn động lực cho quá trình đồng hóa.

3. Âm dương tiêu trưởng:
   Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nó lên sự vận động và chuyển hóa lẫn nhau không ngừng giữa hai mặt âm dương.
   Thí dụ : như sự luân chuyển của bốn mùa đó là quá trình chuyển hóa từ nóng sang lạnh và ngược lại.
    Quá trình vận động của hai măth âm dương là có tính chất giai đoạn, tới mức độ nhất định sẽ chuyển hóa lẫn nhau gọi là " dương cực sinh âm, âm cực sinh dương, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn".
    Thí dụ : như sốt cao thuộc dương nhưng sốt cao quá sẽ tổn thương tân dịch tức phần âm....

4. Âm dương bình hành:
   Hai mặt âm dương tuy đối lập và luôn vận động không ngừng nhưng luôn lặp đi lặp lại được thế cân bằng giữa hai mặt.
   Sự mất quân bình giữa hai mặt âm dương là biểu hiện cho sự phát sinh bệnh tật trong cơ thể.

a. Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:
   Sự đối lập của hai mặt âm dương là tuyệt đối nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó nó cũng là tương đối.
  Thí dụ : hai mặt hàn nhiệt là tuyệt đối nhưng có lương và ôn là tương đối.

b. Trong dương có âm và trong âm có dương:
  do âm dương nương tựa với nhau cùng tồn tại, có khi xen lẫn với nhau trong sự phát triển.

c. Bản chất và hiện tượng
  thông thường bản chất phù hợp với hiện tượng như khi chữa bệnh nhiệt thì dùng thuốc hàn và ngược lại.
   nhưng củng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượngđó gọi là sự " chân giả" trên lâm sàng phait chẩn đoán đúng bản chất để dùng thuốc.
   thí dụ:
- bệnh nhiễm khuẫn gây sốt cao( chân nhiệt) nhưng do nhiễm độc gây trụy mạch khiến chân tay lạnh , ra mồ hôi lạnh( giả hàn) phải dùng thuốc mát để chữa bệnh.....

II. ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC

1. về cấu tạo cơ thể và sinh lý
   Dương : phủ, kinh dương, khí, bên ngoài....
   Âm      : tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới...
   Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân chia ra: thân âm, thận dương, phế âm, phế khí, can huyết can khí, tâm khí, tâm huyết.
   Phủ thuộc dương, do tính chất trong dương có âm nên còn được chia ra : vị âm, vị hỏa....
vật chất dinh dưỡng thuộc âm, cơ năng vận động thuộc dương.

2. về quá trình phát sinh ra bệnh tật 
a. bệnh phát sinh do sự mất cân bằng âm dương trong cơ thể được biểu hiện là sự thiên thắng hay thiên suy.
   Thiên thắng:
     - Âm thắng gây chứng hàn:  chân tay lạnh, người lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng, nước tiểu trong....
     - Dương thắng gây chứng nhiệt:  sốt, mạch sác, khát nước,  táo, nước tiểu đỏ...
  Thiên suy:
    - dương du như trong các trường hợp lão suy.
b. Trong quá trình bệnh phát triển, tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giũa hai mặt âm dương. như bệnh ở phần dương ảnh hưởng đến phần âm như sốt cao kéo dài gây mất tân dịch, và ngược lại như ỉa lỏng kéo dài gây mất nước mất tân dịch gây nhiểm độc thần kinh gây sốt, co giật...
c. Sự mất cân bằng về âm dương gây ra các chứng bệnh khác nhau trong cơ thể:
như :
- dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và chân tay nóng vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt,
- âm thịnh sinh nội hàn : người sợ lạnh, ỉa chảy, nước tiểu trong dài, vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
- dương hư sinh ngoại hàn : chân tay lạnh, sợ lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
- âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước , mất tân dịch gây khát nước họng khô, táo, nước tiểu đỏ...

3. chẩn đoán bệnh

a. dựa vào 4 phương pháp khám bệnh : vọng, văn, vấn, thiết để khai thác các triệu chứng.

b dựa vào bát cương để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh tật, tính chất của bệnh, trạng thái của người bệnh và xu thế của bệnh.

c. dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương, bệnh tật được quy thạnh hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ kinh lạc...

4. chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh

a. chữa bệnh : là sự điều hòa lại sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể tùy theo các tình trạng như hư thực, hàn nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, khí công....

b. thuốc được chia làm hai loại:
- thuốc lạnh, mát để chữa bệnh nhiệt
- thuốc nóng, âm để chữa bệnh hàn.

c. châm cứu : bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu, bệnh thực thì tả, bệnh hư thì bổ
   bệnh thuộc tạng thì dùng các du huyệt sau lưng, bệnh thuộc phủ thì dùng các mộ huyệt trước ngực. theo nguyên tắc "theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương".

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

DANH Y NỔI TIẾNG

KIẾN THỨC YHCT

BỆNH HỌC YHCT

BỆNH THƯỜNG GẶP

Bài Đăng Phổ Biến